Nghiên cứu chẩn đoán, phân loại u lympho dạ dày - ruột bằng mô bệnh học và hóa mô miễn dịch

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.
PDF Download: 68 View: 59

Indexing

CÁC SỐ TỪ 2011-2023
Tạp chí Y Dược Học

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Phân loại hiện nay của WHO có nhiều bổ sung quan trọng về mô học và tế bào cho u lympho dạ dày - ruột. Mục tiêu: Khảo sát vai trò mô bệnh học, hóa mô miễn dịch chẩn đoán, phân loại các lympho dạ dày - ruột.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 141 bệnh nhân được chẩn đoán lympho dạ dày - ruột tại ba bệnh viện. Đặc điểm mô bệnh học được phân tích và kết hợp với hóa mô miễn dịch để phân típ theo phân loại của WHO 2019.Kết quả: 90,8% u lympho dạ dày - ruột có biểu hiện lympho ác tính trên mô bệnh học. Típ thường gặp nhất là u lympho tế bào B lớn lan tỏa (DLBCL) trong đó dưới típ tế bào B hoạt hóa (ABC) chiếm 54%, dưới típ giống tế bào B tâm mầm chiếm 46%. Đứng thứ hai là u lympho liên kết niêm mạc (MALT lymphoma) chiếm tỉ lệ 24%, tiếp đến là u lympho tế bào áo nang chiếm tỉ lệ 10,6%. Mô bệnh học có thể định hướng phân loại cho hai típ DLBCL và MALT với độ nhạy 32% và 29%.Kết luận: Dựa vào biểu hiện mô bệnh học cho định hướng phân loại loại u này vẫn là một thách thức. Khi kết hợp mô bệnh học và hóa mô miễn dịch giúp phân loại được phần lớn các típ u lympho dạ dày ruột.
https://doi.org/10.34071/jmp.2023.5.17
Đã xuất bản 01-09-2023
Toàn văn
PDF Download: 68 View: 59
Ngôn ngữ
Số tạp chí Tập 13 Số 5 (2023)
Phân mục Nghiên cứu
DOI 10.34071/jmp.2023.5.17
Từ khóa Gastrointestinal lymphomas, DLBCL, MALT. u lympho dạ dày - ruột, u lympho B lớn lan tỏa, u lympho liên kết niêm mạc.

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International .

Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Y Dược Huế

Nguyễn, D. T., Tạ, V. T., Nguyễn, T. B. S., Ngô, Q. T., Trần, T. N. P., Lê, V., Trần, T. H. L., & Đặng, C. T. (2023). Nghiên cứu chẩn đoán, phân loại u lympho dạ dày - ruột bằng mô bệnh học và hóa mô miễn dịch. Tạp Chí Y Dược Huế, 13(5), 128–134. https://doi.org/10.34071/jmp.2023.5.17