Tóm tắt
Đặt vấn đề: Xét nghiệm test nhanh hồng cầu ẩn (FOBT) sử dụng rộng rãi trong chương trình sàng lọc ung thư đại tràng. So sánh giữa các phương pháp trong FOBT đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu nhưng tham chiếu với kỹ thuật truyền thống hồng cầu soi tươi vẫn chưa được làm rõ. Mục tiêu: 1) Đánh giá tỷ lệ FOBT dương tính ở những nhóm bệnh lý khác nhau; 2) So sánh độ nhạy và độ đặc hiệu của kỹ thuật hồng cầu trong phân soi tươi và kỹ thuật FOBT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, trong thời gian 4/2021 - 4/2022, 120 bệnh nhân tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế có chỉ định làm xét nghiệm phân. Mẫu phân được xét nghiệm phát hiện sự hiện diện của hồng cầu bằng kỹ thuật truyền thống soi tươi và kỹ thuật FOBT. Kết quả: Tỷ lệ FOBT (+) chung là 20%, trong đó nhóm bệnh lý tiêu hóa (37,5%, n = 24), thiếu máu lâm sàng (23,8%, n = 21), bệnh lý gan mật (11,5%, n = 26), bệnh khác (14,3%, n = 49). Tham chiếu với kỹ thuật FOBT, kỹ thuật soi tươi hồng cầu trong phân có độ nhạy (Se) là 33,3% và độ đặc hiệu (Sp) là 100%. Kết luận: Tỷ lệ dương tính cao test nhanh hồng cầu ẩn trong phân ở bệnh nhân đến khám liên quan đến các bệnh lý đường tiêu hóa. Kỹ thuật soi tươi cho thấy độ nhạy kém và có nhiều nhược điểm so với test nhanh. Kỹ thuật test nhanh này cần được chỉ định rộng rãi trên lâm sàng để hỗ trợ chẩn đoán xuất huyết tiêu hóa.Đã xuất bản | 01-12-2023 | |
Toàn văn |
|
|
Ngôn ngữ |
|
|
Số tạp chí | Tập 13 Số 7 (2023) | |
Phân mục | Nghiên cứu | |
DOI | 10.34071/jmp.2023.7.4 | |
Từ khóa | fecal occult blood, microscopic detection, gastrointestinal bleeding hồng cầu ẩn, soi tươi, xuất huyết tiêu hóa |

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International . p>
Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Y Dược Huế
Lê, C. C., Tôn, N. P. A., Ngô, T. M. C., Nguyễn, P. V., Đỗ, T. B. T., Hà, T. N. T., Võ, M. T., Trần, T. G., & Tôn, T. Đông D. (2023). Đánh giá kết quả xét nghiệm hồng cầu ẩn trong phân so với soi tươi tìm hồng cầu trong phân. Tạp Chí Y Dược Huế, 13(7), 31. https://doi.org/10.34071/jmp.2023.7.4