Nghiên cứu hiệu quả giảm đau của gây tê mặt phẳng cơ ngực và cơ răng trước dưới hướng dẫn siêu âm sau phẫu thuật cắt vú do ung thư

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.
PDF Download: 30 View: 38

Indexing

CÁC SỐ TỪ 2011-2023
Tạp chí Y Dược Học

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Gây tê mặt phẳng cơ ngực và cơ răng trước (PECS II) là một phương pháp gây tê vùng mang lại hiệu quả giảm đau cho các phẫu thuật vùng ngực trước và bên. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả, biến chứng và các tác dụng không mong muốn của gây tê mặt phẳng cơ ngực và cơ răng trước trong giảm đau đa mô thức sau phẫu thuật cắt vú toàn bộ do ung thư kèm nạo hạch nách. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, ngẫu nhiên, có so sánh, 69 bệnh nhân có tình trạng sức khỏe ASA I, II có chỉ định cắt vú toàn bộ kèm nạo hạch nách do ung thư, có hoặc không có tái tạo tức thì được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm Para-PECS được giảm đau bằng gây tê PECS II với levobupivacain 0,25% (tổng 30 ml: 20 ml giữa cơ ngực bé và cơ răng trước, 10 ml giữa cơ ngực lớn và cơ ngực bé) sau phẫu thuật, phối hợp với paracetamol 1g truyền tĩnh mạch mỗi 8 giờ. Nhóm Para-Diclo được giảm đau bằng diclofenac 75 mg tĩnh mạch mỗi 12 giờ và paracetamol 1g truyền tĩnh mạch mỗi 8 giờ. Theo dõi, đánh giá VAS khi nghỉ và vận động, tỷ lệ điểm VAS ≤ 3, thời gian yêu cầu morphin đầu tiên, tổng lượng morphin giải cứu, mức độ hạn chế vận động, chất lượng hồi phục, các biến chứng và tác dụng không mong muốn ở các thời điểm 0, 1, 2, 4, 6, 8, 12, 18, 24 giờ sau phẫu thuật. Khảo sát tỷ lệ hội chứng đau sau phẫu thuật cắt vú sau 6 tháng. Kết quả: VAS nghỉ và vận động của nhóm Para-PECS ở thời điểm 0, 2, 4, 6, 8 giờ thấp hơn nhóm Para-Diclo, tỷ lệ BN phải giải cứu morphin sau phẫu thuật ở nhóm Para-Diclo là 29,4%, cao hơn có ý nghĩa so với nhóm Para-PECS là 2,9%, thời gian yêu cầu giải cứu morphin đầu tiên ở nhóm Para-Diclo là 1,53 ± 1,48 giờ sớm hơn có ý nghĩa so với nhóm Para-PECS là 6,00 ± 0,0 giờ (p < 0,05). VAS nghỉ và vận động từ thời điểm 12 giờ sau phẫu thuật. Có 9 BN ở nhóm Para-Diclo hạn chế vận động khớp vai và cánh tay mức độ trung bình ở thời điểm ngay sau PT, cao hơn có ý nghĩa so với không có BN nào ở nhóm Para-PECS (p < 0,05). Chất lượng hồi phục đánh giá theo thang điểm QoR-15 tại thời điểm 12 giờ đầu sau phẫu thuật ở nhóm Para-PECS cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm Para-Diclo (p < 0,05), tại thời điểm 24 giờ sau PT tương tự nhau ở hai nhóm nghiên cứu (p > 0,05). Có 7/63 trường hợp (11,1%) có hội chứng đau sau PT cắt vú toàn bộ. Trong đó, nhóm Para-PECS có 3/32 trường hợp (9,4%), nhóm Para-Diclo có 4/31 trường hợp (12,9%). Tỷ lệ đau mạn tính thấp hơn ở nhóm Para-PECS nhưng không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Kết luận: Gây tê PECS II là khả thi và hiệu quả như là thành phần của giảm đau đa mô thức sau phẫu thuật cắt vú do ung thư.
https://doi.org/10.34071/jmp.2024.5.20
Đã xuất bản 25-09-2024
Toàn văn
PDF Download: 30 View: 38
Ngôn ngữ
Số tạp chí Tập 14 Số 5 (2024)
Phân mục Nghiên cứu
DOI 10.34071/jmp.2024.5.20
Từ khóa mastectomy due to cancer, PECS II block, postmastectomy pain syndrome phẫu thuật cắt vú do ung thư, gây tê PECS II, hội chứng đau sau phẫu thuật cắt vú

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International .

Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Y Dược Huế

Hoàng V. K. H., Hồ K. C., Trần X. T., Nguyễn V. M., Trần T. T. L., & Lê, V. T. (2024). Nghiên cứu hiệu quả giảm đau của gây tê mặt phẳng cơ ngực và cơ răng trước dưới hướng dẫn siêu âm sau phẫu thuật cắt vú do ung thư. Tạp Chí Y Dược Huế, 14(5), 153. https://doi.org/10.34071/jmp.2024.5.20